Kiểm tra hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô
Các sản phẩm
Ứng dụng
Trường hợp
Hỗ trợ khách hàng
Blog
Vị trí của bạn: Trang chủ > Blog > Blog ngành
Kiểm tra hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô
Thời gian phát hành:2024-06-11
Đọc:
Chia sẻ:
Đối với bề mặt vi mô, mỗi tỷ lệ hỗn hợp được phát triển là một thử nghiệm tương thích, bị ảnh hưởng bởi nhiều biến số như nhựa đường nhũ hóa và loại cốt liệu, cấp phối cốt liệu, lượng nước và nhựa đường nhũ hóa cũng như các loại chất độn khoáng và phụ gia. . Do đó, phân tích thử nghiệm mô phỏng tại chỗ các mẫu trong phòng thí nghiệm trong các điều kiện kỹ thuật cụ thể đã trở thành chìa khóa để đánh giá hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô. Một số bài kiểm tra thường được sử dụng được giới thiệu như sau:
1. Kiểm tra trộn
Mục đích chính của thử nghiệm trộn là mô phỏng công trường lát đá. Khả năng tương thích của nhựa đường nhũ hóa và cốt liệu được xác minh thông qua trạng thái đúc của bề mặt vi mô và thu được thời gian trộn cụ thể và chính xác. Nếu thời gian trộn quá lâu, mặt đường sẽ không đạt cường độ ban đầu và không thông xe; nếu thời gian trộn quá ngắn thì việc thi công mặt đường sẽ không được trơn tru. Hiệu quả xây dựng của bề mặt vi mô dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường. Vì vậy, khi thiết kế hỗn hợp, thời gian trộn phải được kiểm tra dưới nhiệt độ bất lợi có thể xảy ra trong quá trình thi công. Thông qua một loạt các thử nghiệm hiệu suất, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô được phân tích tổng thể. Các kết luận được rút ra như sau: 1. Nhiệt độ, môi trường nhiệt độ cao có thể làm giảm đáng kể thời gian trộn; 2. Chất nhũ hóa, liều lượng chất nhũ hóa càng lớn thì thời gian trộn càng lâu; 3. Xi măng, việc thêm xi măng có thể kéo dài hoặc rút ngắn hỗn hợp. Thời gian trộn được xác định bởi tính chất của chất nhũ hóa. Nói chung, lượng càng lớn thì thời gian trộn càng ngắn. 4. Lượng nước trộn, lượng nước trộn càng nhiều thì thời gian trộn càng lâu. 5. Giá trị pH của dung dịch xà phòng thường là 4-5 và thời gian trộn lâu. 6. Thế năng zeta của nhựa đường nhũ hóa càng lớn và cấu trúc lớp điện kép của chất nhũ hóa thì thời gian trộn càng dài.
Kiểm tra hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô_2Kiểm tra hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô_2
2. Kiểm tra độ bám dính
Chủ yếu kiểm tra độ bền ban đầu của bề mặt vi mô, có thể đo chính xác thời gian đông kết ban đầu. Đủ cường độ sớm là điều kiện tiên quyết để đảm bảo thời gian thông xe. Chỉ số bám dính cần được đánh giá một cách toàn diện và giá trị độ bám dính đo được phải được kết hợp với tình trạng hư hỏng của mẫu để xác định thời gian đông kết ban đầu và thời gian lưu thông mở của hỗn hợp.
3. Kiểm tra độ mòn bánh xe ướt
Thử nghiệm mài mòn bánh xe ướt mô phỏng khả năng chống mài mòn của lốp khi đường ướt.
Thử nghiệm mài mòn bánh xe ướt kéo dài một giờ có thể xác định khả năng chống mài mòn của lớp chức năng vi bề mặt và tính chất lớp phủ của nhựa đường và cốt liệu. Khả năng chống hư hại do nước của hỗn hợp nhựa đường nhũ tương biến tính bề mặt vi mô được biểu thị bằng giá trị mài mòn trong 6 ngày và độ xói mòn do nước của hỗn hợp được kiểm tra thông qua quá trình ngâm lâu. Tuy nhiên, tác hại của nước không chỉ thể hiện ở việc thay thế màng nhựa đường mà sự thay đổi trạng thái pha của nước cũng có thể gây hư hỏng hỗn hợp. Thử nghiệm mài mòn ngâm trong 6 ngày không tính đến tác động của chu trình đóng băng-tan băng của nước đối với quặng ở vùng đóng băng theo mùa. Hiệu ứng bong tróc và đóng băng do lớp nhựa đường trên bề mặt vật liệu gây ra. Do đó, dựa trên thử nghiệm mài mòn bánh xe ướt ngâm trong nước trong 6 ngày, người ta dự định áp dụng thử nghiệm mài mòn bánh xe ướt theo chu kỳ đóng băng-tan băng để phản ánh đầy đủ hơn các tác động bất lợi của nước lên hỗn hợp bề mặt vi mô.
4. Kiểm tra biến dạng vết hằn
Thông qua thử nghiệm biến dạng vết hằn, có thể thu được tốc độ biến dạng chiều rộng vết bánh xe và có thể đánh giá khả năng chống vết hằn của hỗn hợp bề mặt vi mô. Tốc độ biến dạng theo chiều rộng càng nhỏ thì khả năng chống biến dạng hằn lún càng mạnh và độ ổn định nhiệt độ cao càng tốt; ngược lại khả năng chống biến dạng hằn lún càng kém. Nghiên cứu cho thấy tốc độ biến dạng chiều rộng vết bánh xe có mối tương quan rõ ràng với hàm lượng nhựa đường nhũ hóa. Hàm lượng nhựa đường nhũ tương càng lớn thì khả năng chống lún của hỗn hợp bề mặt vi mô càng kém. Ông chỉ ra rằng điều này là do sau khi nhựa đường nhũ hóa polyme được kết hợp với chất kết dính vô cơ gốc xi măng, mô đun đàn hồi của polyme thấp hơn nhiều so với mô đun đàn hồi của xi măng. Sau phản ứng hỗn hợp, tính chất của vật liệu xi măng thay đổi, dẫn đến độ cứng tổng thể giảm. Kết quả là độ biến dạng của vết bánh xe tăng lên. Ngoài các thử nghiệm trên, nên thiết lập các tình huống thử nghiệm khác nhau tùy theo các tình huống khác nhau và nên sử dụng các thử nghiệm tỷ lệ trộn khác nhau. Trong thực tế thi công, tỷ lệ trộn, đặc biệt là lượng nước tiêu thụ của hỗn hợp và lượng tiêu thụ xi măng, có thể được điều chỉnh phù hợp theo thời tiết và nhiệt độ khác nhau.
Kết luận: Là một công nghệ bảo trì phòng ngừa, xử lý bề mặt vi mô có thể cải thiện đáng kể hiệu suất toàn diện của mặt đường và loại bỏ hiệu quả tác động của các bệnh khác nhau trên mặt đường. Đồng thời, nó có chi phí thấp, thời gian thi công ngắn và hiệu quả bảo trì tốt. Bài viết này xem xét thành phần của hỗn hợp bề mặt vi mô, phân tích tác động của chúng lên tổng thể, đồng thời giới thiệu và tóm tắt ngắn gọn các thử nghiệm hiệu suất của hỗn hợp bề mặt vi mô trong các thông số kỹ thuật hiện tại, có ý nghĩa tham khảo tích cực cho nghiên cứu chuyên sâu trong tương lai.
Mặc dù công nghệ bề mặt vi mô ngày càng trưởng thành nhưng vẫn cần được nghiên cứu và phát triển thêm để nâng cao trình độ kỹ thuật nhằm cải thiện và nâng cao tốt hơn hiệu suất toàn diện của đường cao tốc và đáp ứng nhu cầu hoạt động giao thông. Ngoài ra, trong quá trình thi công bề mặt vi mô, nhiều điều kiện bên ngoài có tác động tương đối trực tiếp đến chất lượng của công trình. Vì vậy, phải xem xét điều kiện thi công thực tế và lựa chọn các biện pháp bảo trì khoa học hơn để đảm bảo việc thi công bề mặt vi mô có thể được thực hiện suôn sẻ và đạt được hiệu quả bảo trì nâng cao.