Đặc tính kỹ thuật của bảo trì phòng ngừa mặt đường nhựa
Các sản phẩm
Ứng dụng
Trường hợp
Hỗ trợ khách hàng
Blog
Vị trí của bạn: Trang chủ > Blog > Blog ngành
Đặc tính kỹ thuật của bảo trì phòng ngừa mặt đường nhựa
Thời gian phát hành:2023-11-09
Đọc:
Chia sẻ:
Công nghệ bịt kín sỏi đồng bộ đã được phát huy và áp dụng trong và ngoài nước. Đây là một công nghệ bảo trì kinh tế và hiệu quả. Xe rải sỏi đồng bộ được sử dụng để rải đồng thời chất kết dính nhựa đường (nhựa đường biến tính, nhựa đường nhũ hóa, v.v.) và các loại đá có kích thước hạt đơn (thường được sử dụng từ 4 đến 6 mm, 6 đến 10 mm) trên mặt đường, sau đó đi qua máy đầm lăn lốp cao su Hoặc sự lăn tự nhiên của xe tạo thành một lớp mòn của mặt đường rải sỏi nhựa đường. Nó có thể sửa chữa các vết nứt trên đường, giảm vết nứt phản chiếu trên mặt đường và tăng cường độ mài mòn. Màng nhựa đường hình thành trên mặt đường có thể chống lại sự xâm nhập của nước mặt. Nó có thời gian thi công ngắn, công nghệ đơn giản và khả năng ứng dụng mạnh mẽ. Hiện nay, lớp bịt sỏi đồng bộ chủ yếu được sử dụng trong bảo trì phòng ngừa đường cao tốc, đường cao tốc thông thường, đường quận và thị trấn, đồng thời cũng có thể được sử dụng trong lớp mài mòn nền của đường mới và lớp bịt phía dưới của mặt đường được gia cố. Khi kinh phí xây dựng eo hẹp, nó có thể được sử dụng làm mặt đường chuyển tiếp cho đường cao tốc cấp thấp.
Trong quá trình thi công cụ thể, công nghệ này chủ yếu tập trung vào lớp trên, trong khi lớp bịt kín phía trên và lớp mài mòn thường bị bỏ qua, dẫn đến thất thoát tài nguyên. Trong những năm gần đây, các công nghệ như mài mòn bề mặt vi mô và mài mòn siêu âm tiếp tục xuất hiện. Trong quá trình bảo trì phòng ngừa đường nhựa, công nghệ bịt kín thường được sử dụng. Các công nghệ thường được sử dụng bao gồm phủ lớp mỏng nóng và lạnh và hàn kín vết nứt. lớp và nhiều loại khác. Sự lựa chọn chính của công nghệ lớp phủ cho mặt đường nhựa là lớp phủ sỏi nhựa đường đồng thời. Công nghệ này có thể tiết kiệm chi phí của dự án một cách hiệu quả. Ngoài ra, kể từ khi công nghệ này được sử dụng ở Pháp vào cuối thế kỷ 20, nó đã nhanh chóng mở rộng sang Hoa Kỳ và Châu Âu. Các quốc gia, bao gồm một số nước ở Châu Á, Châu Phi và Úc, cũng đã bắt đầu sử dụng công nghệ này trong các dự án cụ thể. Dữ liệu cho thấy chỉ có khoảng 5% dự án ở châu Âu không sử dụng công nghệ này để bảo trì phòng ngừa đường bộ. Hiện nay, khi sử dụng công nghệ bịt kín này ở nước ta phải đáp ứng các yêu cầu sau.
(1) Yêu cầu tổng hợp. Để chống lại sự hao mòn của phương tiện trong quá trình vận hành đường cao tốc, cốt liệu mặt đường cần phải có đủ độ cứng. Đặc biệt trong trường hợp lưu lượng giao thông đông đúc và tải trọng xe lớn, việc lựa chọn độ cứng tổng hợp trở nên nổi bật hơn; sự phân cấp thường không được trộn với bột. Sử dụng một kiểu chuyển màu duy nhất; khi lựa chọn cốt liệu, hãy đảm bảo sử dụng hình khối để tránh sự xuất hiện của các mảnh dạng chốt và đảm bảo cốt liệu được nhúng đầy đủ vào nhựa đường.
(2) Nhựa đường. Việc lựa chọn nhựa đường trước tiên phải đáp ứng các yêu cầu liên quan về lựa chọn nhựa đường do bộ phận đường cao tốc đặt ra. Trên cơ sở đáp ứng các thông số kỹ thuật, có thể lựa chọn nhựa đường nhũ hóa, biến tính, cao su hoặc thông thường.
(3) Sử dụng vật liệu. Khi sử dụng công nghệ bịt kín sỏi để bảo trì đường bộ, các viên đá cần được liên kết chặt chẽ, đá phải được phủ nhựa đường hoàn toàn để chống lại sự mài mòn của mặt đường do bánh xe gây ra. Khi lượng rải quá nhiều, chất kết dính nhựa đường sẽ bị ép ra khỏi các khe hở trên đá khi xe lăn trên đường, xuất hiện bề mặt dầu, từ đó làm giảm chỉ số chống trượt và ma sát của đường; tuy nhiên, nếu lượng đá rải quá nhỏ thì đá không thể liên kết hiệu quả và đá có thể bị văng ra khỏi mặt đường.
Tóm lại, việc sử dụng công nghệ bịt kín sỏi đồng thời bằng nhựa đường có tác dụng thực tế rất quan trọng. Nó không chỉ có thể ngăn chặn hiệu quả sự tích tụ nước trên đường, cải thiện độ bền cắt của đường mà còn nâng cao hiệu quả hiệu suất của đường trong điều kiện nhiệt độ thấp và cao. Khả năng chống nứt cao giúp bề mặt nhựa đường không bị hư hỏng do xói mòn hoặc nứt. Công nghệ này trải đều nhựa đường biến tính và đá tuân thủ trên mặt đường cùng lúc để đảm bảo sự kết hợp hiệu quả giữa hai chất liệu này, đồng thời tăng cường độ bám dính và độ bền giữa hai chất liệu này. Ngoài ra, công nghệ này còn có hiệu quả cao, tiện lợi, tiết kiệm tài nguyên, chi phí và có tính khả thi cao. Đồng thời, do yêu cầu cao đối với các thiết bị liên quan nên chi phí nhân công giảm đi rất nhiều. Vì vậy, phương pháp kỹ thuật này có thể được phát huy để cải thiện khả năng chống nứt và chống trượt của đường nhựa càng nhiều càng tốt.